Bác Hồ tìm ra con đường cứu nước: Ý nghĩa và giá trị đối với cách mạng Việt NamNgày 05-6-1911, Bác Hồ rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước. Trải qua 10 năm ròng rã, Người đã tìm ra con đường cứu nước – con đường cách mạng vô sản. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại vô cùng to lớn đối với cách mạng Việt Nam.
1. Bác Hồ tìm ra con đường cứu nước
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược và từng bước thôn tính Việt Nam. Sau đó, chúng đặt chế độ cai trị tàn bạo trên đất nước ta. Chúng thực hiện chính sách "chia để trị" và chế độ chuyên chế về chính trị, tiến hành bóp nghẹt tự do dân chủ, xây dựng các nhà tù để giam giữ người Việt yêu nước, v.v.. Sự cai trị tàn bạo của thực dân Pháp và bọn tay sai đã đã làm cho mâu thuẫn giữa chúng với dân tộc Việt Nam ngày càng sâu sắc. Các phong trào đấu tranh yêu nước diễn ra mạnh mẽ trên khắp cả nước như phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết đứng đầu (1885-1896), khởi nghĩa của nông dân, xu hướng bạo động do Phan Bội Châu (1867-1940) tổ chức, xu hướng cải cách do Phan Châu Trinh (1872-1926) đề xướng, v.v.. Tất cả những phong trào yêu nước ấy tuy diễn ra rầm rộ nhưng đều thất bại. Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc bị khủng hoảng, bế tắc.
Trong bối cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến sự thất bại của các bậc tiền bối, Bác thấy hết sức đau sót cho vận mệnh dân tộc. Bác đã suy nghĩ rất nhiều, một ngày chưa ra đi tìm đường cứu nước là một ngày dân tộc thêm đau khổ. Với hoài bão lớn lao cùng ý chí quyết tâm, Bác đã đi phương Tây tìm đường cứu nước. Trong suốt 10 năm bôn ba, tìm đường cứu nước, Bác đã đi nhiều nơi trên thế giới, nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng tiêu biểu lúc bấy giờ. Trong đó có cách mạng Anh, cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ và thấy rằng tuy các cuộc cách mạng này thành công nhưng thành công chưa đến nơi, nghĩa là quần chúng lao động vẫn còn cực khổ, chưa được giải phóng, chế độ áp bức bóc lột vẫn tồn tại.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính phủ công - nông - binh do V.I.Lênin đứng đầu đã ban hành “Sắc lệnh hòa bình” và “Sắc lệnh ruộng đất”, cùng các chính sách: ngày làm việc 8 giờ, giáo dục và chữa bệnh không mất tiền, nam nữ bình quyền, các dân tộc có quyền bình đẳng, tự do tín ngưỡng, v.v.. Các chính sách này thể hiện tính triệt để và lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười Nga. Lúc đầu, do bị bọn đế quốc và bọn phản động tìm mọi cách bưng bít thông tin, tiếng vang của Cách mạng Tháng Mười Nga chưa lập tức tác động đến Nguyễn Ái Quốc, nhưng với sự nhạy cảm về chính trị, nên tuy chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của Cách mạng Tháng Mười, Người vẫn nhận thấy đây là một biến cố to lớn và có một sức lôi cuốn kỳ diệu. Từ những nhận thức ban đầu này đã thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu thêm về Cách mạng Tháng Mười Nga và tham gia vào cuộc đấu tranh ủng hộ nước Nga Xôviết. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa (do V.I.Lênin soạn thảo để chuẩn bị cho Đại hội II của Quốc tế Cộng sản) đăng trên báo L'Humanite (Nhân đạo) đã tác động sâu sắc, tạo nên bước chuyển biến về chất của nhà yêu nước, nhà hoạt động cách mạng Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Với việc bỏ phiếu Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (tháng 12-1920), đã khẳng định dứt khoát con đường cách mạng mà Bác lựa chọn là đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga – con đường cách mạng vô sản. Người đã rút ra một kết luận mang tính chân lý: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"[1], "chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ"[2]. 2. Ý nghĩa và giá trị con đường cứu nước của Bác đối với cách mạng Việt Nam
Việc Bác tìm ra con đường cứu nước có một ý nghĩa lịch sử và giá trị vô cùng to lớn đến quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Với con đường cứu nước mà Bác tìm ra, đã chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Từ năm 1921, Bác đã tích cực hoạt động cách mạng và chuẩn bị những tiền đề về tư tưởng, chính trị, tổ chức, dẫn đến sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03-02-1930. Ngay khi ra đời, Đảng đề ra phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Phương hướng chiến lược của cách mạng đã phản ánh đúng khát vọng của dân tộc là đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, xây dựng xã hội mới tốt đẹp – xã hội cộng sản. Phương hướng ấy đồng thời cũng khẳng định dứt khoát nội dung, xu hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại được mở ra từ khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công: "Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhất mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta"[3].
Với việc tìm ra con đường cứu nước, chuẩn bị và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam – Đây là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó phản ánh quy luật ra đời và tạo nên cội nguồn sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Công thức chung về sự ra đời của các Đảng Cộng sản nói chung là chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân. Ở Việt Nam, vì giai cấp công nhân lúc ấy chỉ chiếm 1% dân số, phong trào công nhân chưa lớn mạnh, nên phải kết hợp thêm sức mạnh của phong trào yêu nước. Đó chính là sự linh hoạt, sáng tạo của Bác sau khi tìm thấy con đường cứu nước, để đi đến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đường lối cứu nước mà Bác tìm ra đã được chính Người và Đảng ta vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trải qua 15 năm, Đảng lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh gian khổ, đã giành được chiến thắng oanh liệt trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiếp đến, Đảng tiếp tục lãnh đạo thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc.
Bước vào công cuộc đổi mới, con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh lựa chọn tiếp tục được vận dụng sáng tạo, được cụ thể hóa thành hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, "đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay"[4]. Những thành tựu đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất và mang ý nghĩa quyết định là đường lối cách mạng đúng đắn do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng lựa chọn, phát triển. Bên cạnh những thành tựu đạt được, đất nước vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng chỉ ra đã từng bước được khắc phục, song có mặt diễn biến phức tạp hơn, nhất là nguy cơ tụt hậu về công nghệ và rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn; các thế lực thù địch, phản động vẫn tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Bối cảnh quốc tế diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo, v.v.. tác động nhiều chiều đến mô hình, phương thức phát triển đất nước.
Trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, thuận lợi và khó khăn đan xen, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải luôn kiên định và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định và phát triển sáng tạo con đường mà Bác và Đảng ta đã lựa chọn, để cùng nhau xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
ThS. Nguyễn Duy Kha
Tài liệu tham khảo:
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.12, tr.30.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.12, tr.563
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.1991, tr.109.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t.1, tr.103, 104.