Khắc phục tình trạng ngại học lý luận chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Quyết định về việc công bố công khai bổ sung dự toán ngân sách năm 2025 của Trường Chính trị tỉnh Phú Yên Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong bối cảnh mới Hội nghị rà soát, thống nhất đề án hợp nhất trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk và trường Chính trị tỉnh Phú Yên thành trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk Kiên quyết đấu tranh, bác bỏ các âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận những thành quả cách mạng Việt Nam Lớp Trung cấp lý luận chính trị khoá 144 nghiên cứu thực tế tại tỉnh Lâm Đồng Phản bác luận điệu xuyên tạc về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Nhận diện, phản bác luận điệu sai trái, thù địch về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay Lễ dâng hương Kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh Trường Chính trị tỉnh Phú Yên tổ chức khai giảng Lớp Trung cấp LLCT K.146, hệ đào tạo tập trung, khóa học 2025-2026 Trường Chính trị tỉnh Phú Yên tổ chức khai giảng Lớp Trung cấp LLCT K.145, hệ đào tạo không tập trung, khóa học 2025-2026 Sự cần thiết phát huy vai trò của học viên Trung cấp lý luận chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch tại Trường Chính trị tỉnh Phú Yên
Nghiên cứu khoa họcarrow_rightBảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
visibility 623 lượt xem
calendar_month 23/12/2024
print In
save Lưu
GIÁ TRỊ KHOA HỌC BỀN VỮNG CỦA HỌC THUYẾT C.MÁC VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Ph.Ăngghen đã từng đánh giá rằng, C.Mác là nhà tư tưởng kiệt xuất của thời đại mình, nhà bác học vĩ đại của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Thiên tài trí tuệ của C.Mác được thể hiện tập trung và nổi bật ở những phát kiến vạch thời đại của ông.
          Một trong những phát kiến vĩ đại của C.Mác là quan niệm duy vật về lịch sử mà nội dung cơ bản, đóng vai trò nền tảng chính là học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội đã vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội, là phương pháp luận khoa học để nhận thức, cải tạo xã hội. Trong thời đại ngày nay, tình hình thế giới đã và đang có những biến đổi to lớn nhưng học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác vẫn còn giữ nguyên giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng sâu sắc. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học chỉ đạo cho các chính đảng cách mạng và nhà nước xã hội chủ nghĩa vận dụng sáng tạo trong xác định cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng chủ nghĩa xã hội; là cơ sở khoa học của việc xác định con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.

          Trước C.Mác những nhà triết học và xã hội học mới chỉ bàn về mục đích xã hội, tiến bộ xã hội một cách trừu tượng mà chưa gắn với quá trình sản xuất vật chất và lực lượng sản xuất gắn liền với những tiến bộ đó. Nhưng đến khi chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác ra đời, nhân loại tiến bộ đã có trong tay một lý luận khoa học và cách mạng để nhận thức bản chất của xã hội trong mối tổng hoà của những quan hệ khác, tìm ra những quy luật khách quan chi phối tiến trình phát triển lịch sử của nhân loại. C.Mác đã nghiên cứu những vấn đề về bản chất của xã hội bằng nhãn quan của mình, ông đã tìm ra đằng sau những sự kiện ẩn dấu trên bề mặt của những hiện tượng xã hội là một dòng chảy tất yếu của các quá trình và quy luật chi phối sự phát triển của xã hội, mà cốt lõi là sự phát triển liên tục của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại. C.Mác đã đưa ra khái niệm hình thái kinh tế - xã hội bằng cách phân tích tất cả các quan hệ giữa người và người trong đời sống hằng ngày, đó là những quan hệ xã hội. Trong tất cả những quan hệ đó, C.Mác đã khám phá ra quan hệ nổi bật, đóng vai trò quan trọng nhất, đó là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất và coi đó là những quan hệ cơ bản quyết định tất cả những quan hệ khác.

          Theo C.Mác: Sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội. Không phải ngẫu nhiên C.Mác có thể tìm ra được điều quan trọng đó, mà đó là kết quả của một quá trình nghiên cứu công phu các xã hội trong lịch sử mà đặc biệt là trong quá trình giải phẫu xã hội tư bản chủ nghĩa. Mỗi xã hội đều có một kiểu quan hệ sản xuất riêng, một chế độ kinh tế tương ứng của một xã hội nhất định. Các quan hệ sản xuất này là hình thức xã hội của quá trình sản xuất vật chất. Phát hiện ra những quy luật xã hội vật chất cơ bản, C.Mác đã đặt cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu xã hội trên quan điểm duy vật lịch sử. Chính trên cơ sở trừu tượng hoá đó, C.Mác đã xây dựng một phạm trù khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử về xã hội - đó là phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, C.Mác không đồng nhất văn minh vật chất với mọi nền văn minh khác mà một số học giả hiện nay quá nhấn mạnh.

          Chúng ta đều biết rằng C.Mác đã không dừng lại ở lý luận trừu tượng về xã hội, không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những xã hội trước đó mà đã đi sâu nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa ở một số nước điển hình, từ đó rút ra quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản thế giới và dự báo những nét cơ bản của xã hội tương lai. C.Mác không chỉ nghiên cứu quan hệ sản xuất một cách biệt lập mà luôn đặt nó trong mối quan hệ với các quan hệ xã hội khác và coi quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan, cơ bản để phân biệt sự khác nhau giữa hình thái kinh tế xã hội này với hình thái kinh tế xã hội khác và coi quan hệ sản xuất là “bộ xương” của cơ thể xã hội. C.Mác còn chỉ ra rằng những quan điểm chính trị, đạo đức, pháp lý, triết học… cùng với những thể chế tương ứng được hình thành trên những quan hệ sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này hợp thành cơ sở hạ tầng của một xã hội - tức là cơ sở hiện thực trên đó xây dựng một kiến trúc thượng tầng. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Hai mặt đó thống nhất với nhau trong một phương thức sản xuất và chính nó là nền tảng vật chất của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Từ những tư tưởng cơ bản của C.Mác, Lênin đã phát triển và làm phong phú thêm học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, đặc biệt là Lênin nhấn mạnh đến tư tưởng coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.

          Như vậy, đứng trên lập trường duy vật lịch sử C.Mác đã khẳng định, những quan hệ vật chất của xã hội là quan hệ cơ bản quyết định các quan hệ xã hội khác và chỉ ra cấu trúc hiện thực của một xã hội cụ thể thông qua phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản xuất đặc trưng ấy.

          Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng); kiến trúc thượng tầng. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội khác nhau. Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội. Ngoài ra, các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.  

          Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác ra đời đã đem lại một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Đây là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội, bác bỏ quan niệm trừu tượng, duy vật tầm thường, duy tâm, phi lịch sử về xã hội trước đó, trở thành hòn đá tảng của khoa học xã hội, cơ sở phương pháp luận khoa học và cách mạng cho sự phân tích lịch sử xã hội. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã giải quyết một cách khoa học về vấn đề phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử, thay thế các quan niệm duy tâm, siêu hình trước đó đã thống trị trong khoa học xã hội. Chỉ ra động lực phát triển của lịch sử xã hội không phải do một lực lượng tinh thần hoặc lực lượng siêu nhiên thần bí nào cả, mà do hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là thực tiễn sản xuất vật chất dưới sự tác động của các quy luật khách quan.

          Muốn nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải nhận thức và tác động cả ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng. Xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố nào cũng sai lầm, xét đến cùng là sự bắt đầu từ việc xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất.

          Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học và cách mạng trong đấu tranh bác bỏ những quan điểm thù địch, sai trái, phiến diện về xã hội. Phê phán thuyết kỹ trị, thuyết hội tụ đã tuyệt đối hóa yếu tố kinh tế - kỹ thuật, xóa nhòa sự khác nhau về bản chất của các chế độ xã hội nhằm chứng minh cho sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ tư bản. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội cũng là cơ sở lý luận khoa học để phê phán quan điểm tuyệt đối hóa cách tiếp cận xã hội bằng các nền văn minh của Alvin Toffler.     

          Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học cho việc Đảng ta xác định con đường phát triển của Việt Nam đó là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây chính là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn, có khả năng và điều kiện để thực hiện. Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã hội trong sự phát triển lịch sử. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển rút ngắn trong lịch sử loài người. Bản chất của sự phát triển rút ngắn xã hội là rút ngắn các giai đoạn, các bước đi của nền văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất.

          Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) đã chỉ ra thực chất của việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”[1]. Năm 2022, Trong tác phẩm: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã chỉ rõ: “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”[2].

          Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học trong quán triệt quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mô hình, mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định với các tiêu chí về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Đồng thời, xác định các phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”[3]. Bởi vì, Đảng ta quan niệm: Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, là kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời nó còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.

          Đại hội lần thứ XII của Đảng (năm 2016), đánh dấu bước phát triển nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta với khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””[4]. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của thời đại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vai trò của Nhà nước trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng ta khẳng định gồm các chức năng: Quản lý và định hướng bảo đảm cho thị trường phát triển; bảo đảm phân phối lại thu nhập quốc dân; ban hành cơ chế chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi trường.

          Năm 2021, với khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Đại hội lần thứ XIII của Đảng một lần nữa khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[5]. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”[6]. Chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - một trong những quan điểm cơ bản của học thuyết C. Mác về hình thái kinh tế - xã hội.

          Vận dụng sáng tạo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, bên cạnh chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta cũng đã xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”[7]. Đến Đại hội lần thứ XIII (năm 2021), Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”[8].

          Cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta còn chú trọng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Đặc biệt là Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân-thiện-mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc…”[9]

          Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay thực tiễn xã hội và sự phát triển của nhận thức khoa học đã bổ sung, phát triển mới các quan niệm lịch sử xã hội, song học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác vẫn giữ nguyên giá trị, là quan niệm duy nhất khoa học và cách mạng để phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề xã hội, là cơ sở nền tảng lý luận cho chủ nghĩa xã hội khoa học. Do đó, nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác với nhiều khía cạnh khác nhau là rất cần thiết có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đóng vai trò rất quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, củng cố niềm tin, lý tưởng cách mạng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là cơ sở khoa học và cách mạng trong cuộc đấu tranh tư tưởng chống lại các quan điểm phiến diện, sai lầm, phản động hòng phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Học thuyết đó được Đảng và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo và điều kiện cụ thể của Việt Nam, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

 
TS Trần Văn Tàu
                                                                            ThS Ngô Thị Kim Phượng
                                                                               Trường Đại học Phú Yên
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. Bộ Giáo dục & Đào tạo: Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
[5]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội: Tập bài giảng triết học Mác - Lênin (Tập II), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000.
 
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.458.  
[2]. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.25.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.459.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.102.  
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.128-129.
[6]. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.26.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.462.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.234-235.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.126.
Tổng số điểm: 0 trong 0 đánh giá
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỦA TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH PHÚ YÊN
call Số điện thoại: mail Email:
location_on Địa chỉ: Đường số 6, P.Phú Đông, TP.Tuy Hòa, Tỉnh Phú Yên
Default information